|
|
|
|
|
Khoa học, Công nghệ, Sản phẩm mới |
|
|
Ứng dụng công nghệ mới làm đê, kè chống ngập, úng 27/03/2008
|
Ngập, úng ở TP. Hồ Chí Minh thật sự trở thành “hiểm họa” của nhiều vùng, cả nội và ngoại thành. Thành phố đã đầu tư gần 16.000 tỷ đồng cho 4 dự án thoát nước lớn và chuẩn bị xây 200km đê bao, song tiến độ thi công hiện nay quá chậm do gặp nhiều vướng mắc. Hy vọng, suy nghĩ và đề xuất của người viết bài này sẽ góp phần đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình mà nhân dân thành phố mong đợi:
1. ứng dụng công nghệ mới “Cọc ván bê-tông cốt thép dự ứng lực dạng sóng” để làm đê bao và kè kênh, rạch. Đây là sản phẩm do Tập đoàn PS Nhật Bản phát minh cách đây 50 năm, được ứng dụng rất có hiệu quả ở Nhật. Cách đây 9 năm, Nhật đã dùng công nghệ này làm kênh dẫn nước cho Nhà máy điện Phú Mỹ 1, với chiều dài 1.000m, rộng 45m, sâu 8,7m, đến nay công trình này vẫn bền vững và bạn đã chuyển giao công nghệ cho Việt Nam (Công ty Cổ phần Bê tông 620 Châu Thới, Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Vật tư).
Với cách làm bờ bao như hiện nay là quá tạm bợ, nền đất yếu nhưng lại đắp bờ bao bằng các loại đất nhão nhoét, lắm hữu cơ… nên dù có gia cố bằng cừ tràm thì dễ dẫn đến hiện tượng xói mòn, vỡ bờ khi thủy triều lên. Nhà nước phải chi hàng trăm tỷ đồng hàng năm để gia cố, sửa chữa (167 tỷ)… mà vẫn không bền vững, mất nhiều đất (mỗi bờ bao rộng từ 2 - 3m), thiệt hại cây trái, hoa màu, đình trệ công việc làm ăn, ách tắc giao thông, ô nhiễm môi trường, dịch sốt xuất huyết phát sinh… Vậy tại sao không dùng cọc ván bêtông dự ứng lực dạng sóng để làm đê baoư Chỉ cần mất 1m đất chiều ngang, lại vô cùng bền vững vì sản phẩm này làm bằng thép cường độ cao, bê-tông mác cao (M700), nhờ cấu tạo “dạng sóng” nên có khả năng chịu lực tốt hơn rất nhiều so với dạng phẳng, lại dễ thi công, ít ảnh hưởng đến các công trình lân cận. Tùy từng vị trí sức ép của triều cường mà chọn độ dày cọc ván khác nhau (60 - 80 - 100 - 110 - 120 - 160 - 200mm) để có giá thành hợp lý, chỉ cần 1 lớp ván cọc cùng dầm mũ là đã trở thành con đê xinh xắn. Cao trình của đê phải đảm bảo an toàn sau 50 năm nữa. Nhà nước đầu tư xây dựng toàn bộ công trình, khi hoàn thành sẽ thu hồi vốn qua “phí chống ngập úng”. Ưu điểm của cọc ván này là dễ thay thế, nơi nào không cần nữa thì có thể nhổ lên để sử dụng ở nơi khác.
Những nơi cần kết hợp đê bao với đường giao thông thì dùng cọc ván bê-tông đóng về 2 phía rồi đổ đất, cát, đá, tráng nhựa thì sẽ thành đường, tất nhiên phải có dầm dằng và dầm mũ.
Dùng cọc ván bê-tông để làm “đập” ở các cửa kênh, rạch… có cửa đóng, mở cơ học. Đóng lại khi triều cường lên quá cao, mở ra khi triều cường xuống để thay nước. ở các cửa đập cần có “trạm bơm dự phòng công suất lớn”, trạm bơm này chỉ vận hành khi “cần thoát nước cưỡng bức”, tức những lúc mưa to và triều cường dâng cao. Vì vậy, có thể ví triều cường là một máy bơm khổng lồ để thoát nước khi triều cường xuống nhưng không cần sử dụng năng lượng, nên ta cần khai thác triệt để cơ chế này.
Diện tích toàn thành phố ta khá rộng (khoảng 2.095Km2), lại lắm kênh, rạch, nên làm đê bao cho toàn thành phố thì rất khó. Theo chúng tôi, nên nghiên cứu làm đê bao cho “từng khu vực”, chọn các khu vực thường xuyên bị ngập do triều cường làm thí điểm trước, khi có kinh nghiệm mới mở rộng thực hiện tiếp theo.
2. Với hơn 1.000Km kênh, rạch là nơi thoát nước tốt nhất, song hiện nay lại bị lấn chiếm, san lấp vô tội vạ, lại không được nạo vét định kỳ, bao nhiêu rác, nước thải độc hại đổ hết xuống, trở thành những con “kênh nước đen”… Cần phải cương quyết giải tỏa, chỉnh trang và định kỳ nạo vét.
- Cần công khai công bố quy hoạch tất cả các kênh, rạch ở thành phố, công bố lộ trình giải tỏa, khuyến khích những ai tự nguyện giải tỏa sớm (như cấp đất, đền bù thỏa đáng…), cương quyết cưỡng chế những ai đi ngược lại lợi ích của đông đảo nhân dân thành phố.
- Dùng cọc ván bê tông tiền áp để làm kè hai bờ kênh, rạch là tốt nhất, nhanh nhất… so với làm kè đá dễ bị lún nứt do làm móng ở hai bờ kênh, rạch rất khó khăn.
3. Nếu thành phố chấp nhận dùng “cọc ván bê-tông cốt thép dự ứng lực dạng sóng” để làm đê bao, kè bờ kênh, rạch… thì nhanh chóng đầu tư cơ sở sản xuất sản phẩm này. Nếu sử dụng sản phẩm này làm kè lấn biển… thì ít ra phải làm hàng chục ngàn ki-lô-mét chiều dài bờ biển thì lo gì đầu ra cho sản phẩm.
Doanh nghiệp này vừa sản xuất vừa thi công dưới hình thức tổng nhận thầu xây dựng chìa khóa trao tay, không lo thiếu việc làm vì không những ở thành phố mà còn nhiều tỉnh lân cận cũng có nhu cầu. Giá thành sản phẩm lúc đó chắc chắn sẽ giảm hơn nhiều so với việc làm thí điểm (như ở thượng nguồn kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè - TP. HCM).
Trường hợp không muốn hình thành doanh nghiệp mới thì có thể liên doanh với hai doanh nghiệp đang sản xuất các sản phẩm trên là Công ty Cổ phần Bê-tông 620 Châu Thới và Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Vật tư, họ đã có kinh nghiệm nhờ thi công chống sạt lở, lấn biển… ở nhiều tỉnh phía Nam.
4. Cần có “Ban chỉ đạo hỗn hợp chống ngập, úng”, bởi chỉ một mình Sở Giao thông Công chính thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn do việc giải quyết ngập, úng liên quan nhiều ngành, nhiều quận -huyện… Ban chỉ đạo này do một đồng chí có “đủ quyền lực”, có quyết tâm cao chỉ huy, biết lắng nghe và tiếp thu những ý kiến xây dựng, đồng thời phải “quyết đoán”, không nên để “lắm thầy rầy ma”, “lắm sãi không ai đóng cửa chùa”, “lắm cha con khó lấy chồng”… thì việc giải quyết hiểm họa ngập, úng kéo dài, thiệt hại ngày càng lớn… Khối lượng công việc nhiều, đầu tư lớn… phải có thời gian cần thiết chừng 7 - 10 năm thì mới hoàn thành.
5. Khi thành phố không còn ngập úng thì ngoài việc thu phí thoát nước, còn phải có thêm “phí chống ngập úng” để thu hồi dần vốn đầu tư, cũng như để trang trải cho phí vận hành cả hệ thống.
|
Các tin khác
|
|
|
|
|
|
|
Lộ trình đổi mới R&D Xây dựng và giao thông Hàn Quốc
Những năm qua, Hàn Quốc đã mở rộng rất nhiều đầu tư trong nghiên cứu và phát triển (R&D) khoa học và công nghệ và đã đạt được thành tựu có ý nghĩa. Bắt đầu như là một dự án hợp tác R&D công nghiệp hàn lâm tháng 12/1994, dự án R&D công nghệ xây dựng và giao thông đã dần dần phát triển ra tổng số 16 dự án bao gồm Dự án Nghiên cứu và Phát triển công nghệ xây dựng trọng điểm năm 2006 với vốn Nhà nước được chi cho các dự án từ 1,2 tỷ won lên 262 tỷ won.
|
Thông báo về việc triệu tập đại hội lần thứ VI của Tổng Hội XDVN
Căn cứ vào Nghị quyết hội nghị BCH TW Tổng Hội XDVN lần thứ V khoá V ngày 6/12/2007, Đoàn Chủ tịch Tổng Hội XDVN đã có quyết định và thông báo về việc tổ chức đại hội khoá VI của Tổng Hội vào ngày 21/8/2008. Đoàn Chủ tịch Tổng Hội đã lập đề cương tổ chức đại hội và ra quyết định thành lập Ban Tổ chức để chuẩn bị đại hội.
|
Các đề tài NCKH của Tổng Hội được duyệt trong năm 2008
Theo công văn số 02/BXD-KHCN ngày 7/1/2008 của Bộ Xây dựng, về kế hoạch khoa học công nghệ và môi trường ngành xây dựng năm 2008, ban hành theo quyết định số 1535/QĐ-BXD ngày 28/12/2007 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Bộ Xây dựng thông báo chính thức các đề tài mà cơ quan thực hiện là Tổng Hội XDVN trong năm 2008 gồm 2 đề tài, đó là:
|
10 sự kiện quan trọng của Hội Môi trường đô thị Việt Nam năm 2007
1. Trong thời gian từ 28/2~13/3/2007, Hội đã cử 30 thành viên tham quan, học tập và trao đổi kinh nghiệm về xử lý chất thải công nghiệp và bảo vệ môi trường ở Nhật Bản.
2. Đã tổ chức hội nghị BCH lần thứ 7 khoá II tại TP Hồ Chí Minh vào ngày 15/6/2007
|
Hoạt động của Hội Kết cấu và Công nghệ xây dựng Việt Nam
Họp Thường trực BCH
Ngày 19/1/2008, Hội đã họp hội nghị Thường trực BCH do Chủ tịch Hội, GS. TSKH. Nguyễn Văn Liên chủ trì. Hội nghị đã quyết định một số công tác quan trọng trong năm 2008.
|
Hội Xây dựng Hà Nội họp tổng kết công tác năm 2007
Sáng ngày 26/1/2008 tại Hội trường Công viên Bách Thảo, Hội Xây dựng Hà Nội đã họp hội nghị Tổng kết hoạt động năm 2007 với sự tham dự của các uỷ viên BCH Hội, lãnh đạo các chi hội cùng đại diện các Hội bạn. GS.TS. Nguyễn Mạnh Kiểm Chủ tịch Tổng hội XDVN và Phó Chủ tịch UBND Hà Nội Nguyễn Văn Khôi đã đến dự Hội nghị.
|
|
|
|
|